Nguồn: http://chuavantho.blogspot.com- Tạo bởi: T.TÂM PHƯỚC - letamphuoc@gmail.com - 01218821100

TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH GIÁC HẠNH ( 1880 - 1981 )

Hòa Thượng họ Nguyễn thế danh Đức Cử, đạo hiệu Thích Giác Hạnh, sinh ngày 13 tháng 6 năm Canh Thìn tại làng Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ Ngài là cụ ông Nguyễn Đức Uẩn pháp danh Trừng Tố tự Quang Tấn, thâm mẫu Ngài là cụ bà Lê Thị Lộc pháp danh Trừng Phước hiệu An Từ. Hai cụ vốn là người phúc hậu , sinh sống theo nghề nông.

Anh em Ngài gồm có chín người, bảy trai hai gái và chính Ngài đóng vai trưởng tử khi người anh cả mất sớm.


Ngài sinh trưởng trong một gia đình chịu ảnh hưởng Tam giáo .Thiếu thời, Ngài theo đòi nho học.Khác với mọi thư sinh khác, Ngài luôn ưu tư về cuộc sống xuất tục. Đã nhiều lần Ngài trình bày với thân sinh về bản hoài xuất gia học Phật.
Cho đến năm 17 tuổi(1897), Ngài xuất gia học đạo tại tổ đình Từ Hiếu(Huế). Ngài đã đạt được sự ấp ủ nội tâm trong chuỗi ngày học đạo, trong khung cảnh thiền môn của Tổ đình Từ Hiếu, thêm vào đó với ý chí quả cảm, tính tình hoan hỷ và nhẫn nại. Ngài đã trở thành vị Sa Di khi tuổi đồi tròn 20, đó là nhằm ngày Đại lễ Phật Đản 08-4 năm Canh Tý, Ngài thọ giới Sa Di với Ngài Tuệ Nhật và được đặt pháp danh là Tâm Cảnh và pháp tự là Thiện Quyên.
Ngày 08-3 năm Canh Tuất(1909), Ngài thọ Cụ Túc giới tại Đại giới đàn chùa Phước lâm tỉnh Quảng Nam do Hòa Thượng hiệu Vĩnh Gia làm Đàn đầu Hòa Thượng. Tiến trình tham học cầu ngộ chân lý giải thoát, Ngài đã theo chúng tìm thầy học đạo tại Phật học đường Tây Thiên. Trải qua một thời gian dài dày công tu học nghiên cứu giáo lý Phật đà, Ngài đã tinh thông Kinh,Luật,Luận và nhất là phần giới hạnh được Ngài nghiêm trì rất thanh tịnh. 
Lúc bấy giờ tại kinh thành Huế, có hai ông bà Hiệp Tá Đại Học Sĩ Nguyễn Đình Hòe có tạo một ngôi am nhỏ hiệu là Phổ Phúc tọa lạc tại cạnh đường Nam Giao-Huế muốn cung thỉnh Ngài làm tọa chủ. Sau nhiều lần ông bà đến chùa Tây Thiên cung thỉnh, Ngài thấy cơ duyên hóa độ và truyền bá giáo pháp là cần thiết, lại thêm sự trạch cử của chư sơn nên Ngài nhân chức trú trì Phổ Phúc Am vào năm Ất Mão(1915) lúc Ngài được 36 tuổi. Khi đến trú trì Ngài thấy sứ mạng"trụ pháp vương gia, trì Như Lai Tạng " không phải là dễ mà cần phải cố gắng và tinh tấn nhiều hơn mới cài tiến nỗi những dị đoan mê tín có phương hại cho đạo pháp. Lẽ tất nhiên trong công cuộc cãi tiến này phải gặp nhiều nghịch cảnh như đã thể hiện qua câu"Phật cao nhất xích,ma cao nhất trượng" nhưng Ngài đã khắc phục tất cả mọi sự khó khăn mới đem lại cảnh rạng rỡ huy hoàng như ngày hôm nay. Với ý chí tiền tu và hoằng hóa của Ngài, Ngài đã được Hòa Thượng hiệu Tâm Tịnh ấn chứng đắc pháp đại sư đạo hiệu là Giác Hạnh, vào ngày 14 tháng giêng năm Bính Dần (1926), kế thừa đời thứ 43 dòng Lâm Tế Thiền Tông. Cùng năm đó, Ngài trùng tu chánh điện và đổi Am Phổ Phúc thành Chùa Vạn Phước(Huế), và hoàn chỉnh nếp sinh hoạt phức tạp vốn có từ trước trở thành nơi Tôn Quy Tổ Đạo.
Năm 1932, Hội An Nam Phật Học ra đời do bác sĩ Lê Đình Thám làm hội trưởng, Ngài được cung thỉnh làm chứng minh Đạo sư của hội.
Để góp phần vào việc đào tạoTăng tài tiếp dẩn hậu tấn , Ngài đã dành những ngôi nhà tả nhà hữu của chùa để làm trường lớp cho những Tăng Ni thời ấy theo học , do Pháp sư Mật Khế sáng lập và chủ giảng .
Với ý niệm tài bồi sự tu học Phật Pháp , Ngài đã cho một số đệ tử theo học như : thầy Huyền Khánh , thầy Chỉnh Túc , thầy Thanh Lương ... và sau nầy còn có những đệ tử khác tham học tại các cơ sở giáo dục Phật giáo như Phật học viện Trung phần , Viện đại học Vạn Hạnh ,Ngài rất sốt sắng dành trọn cuộc đời của Ngài để đào tạo tăng tài .Tuy nhiên Ngài không được mãn nguyện vì hàng đệ tử tài giỏi của Ngài viên tịch quá sớm , mãi cho tới khi tuổi thọ của Ngài đã đến bậc chi kỳ mà Ngài vẫn thao thức nhắc nhỡ những đệ tử của Ngài còn lại phải cố gắng tinh tấn tu học để phụng sự Đạo Pháp .
 Năm Nhâm Ngọ (1941) ,Ngài được cung thỉnh làm Yết Ma Hòa Thượng tại Đại giới đàn chùa Hưng Khánh tỉnh Bình Định do Ngài Chí Bảo làm Đường đầu Hòa Thượng .
Ngài rất quan tâm về việc hoằng hóa độ sanh, nên Ngài đã từng cố vấn đạo hạnh cho hai tổ chức Phật giáo đương thời là Giáo Hội Tăng Già Trung Việt và Hội An Nam Phật Học , Ngài cũng đã cùng Chư vị tôn túc trưởng lão đặt những nền móng xiển dương Phật giáo qua những lãnh vực gíao dục ,xã hội và đặc biệt là hóa đạo bằng những phương thức nghi lễ của thiền môn , Ngài tự nguyện đứng vào trong ban kinh tài để vận động tài chánh cho báo Viên Âm. Tờ báo nầy được duy trì mãi đến ngày báo Từ Bi Âm , Liên Hoa nối tiếp , là nhờ sự đóng góp một phần của Ngài.
Lòng phụng sự Đạo pháp song song với lòng hiếu hạnh , Ngài không quên nơi chôn nhau cắt rốn , nên đã trở về quê hương năm Mậu Tuất ( 1958),. Cùng với Chư vị Trưởng Lão ở làng Ái Tử , Ngài trùng tu Chùa chiền , tạo lập tự sở để tỏ lòng người đạo tử nhớ nghĩa sanh thành 
Năm Quý mão (1963) ,  Ngài tham gia công cuộc vận động ,đòi thực thi 05 nguyện vọng của Phật Giáo Việt Nam .
Đến năm Ất Tỵ (1965) , Ngài thấy tuổi tác đã cao không thể đãm đương Phật sự,nên Ngài trao chức Trú trì cho pháp tử là Hòa Thượng Thích Tâm Hướng . Cùng năm này , Ngài được mời làm Tôn chứng A Xà Lê các giới đàn Từ Hiếu , Báo Quốc và Thiền Tôn -Huế .
Năm 1967 ,Ngài vào miền Nam (Sài Gòn)tiếp nhận Chùa Tuệ Quang. Năm 1970 ,Ngài cho xây lại Chùa này ,Năm 1971 Ngài đã chú thành một Đại Hồng Chung , sau đó đổi hiệu chùa là Vạn Phước vào năm 1973( Ở số 55 đường Sư Tuệ Tĩnh , Quận 11 Sài Gòn ) 
Năm 1973 Ngài được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cung thỉnh làm thành viên Hội Đồng Trưởng Lão Viện Tăng Thống . Cũng trong khoảng thời gian này , Ngài chỉ đạo cho Hòa Thượng Tâm Hướng Chú đại Hồng Chung và trùng tu Chùa Tịnh Độ nằm phía Tây Bắc cạnh Chùa Vạn Phước , đường Lam Sơn - Huế .
   Từ đấy , Ngài không quản ngại mọi khó khăn có khi hành đạo ở miền Trung , lúc du hóa tận phương Nam. Nhiệm vụ của một Thích tử Như Lai trong đời Ngài đã viên thành .Thân ngũ uẩn giả hợp ấy đã đến hồi quy tịch , Ngài đã an nhiên mãn hiện vào giờ tý ngày 10 tháng 7 năm Tân Dậu ( Nhằm ngày 09-8-1981) trường thọ 102 năm , được 72 hạ lạp.Nhà bia và bảo Tháp của Ngài được tôn trí tại khuôn viên Chùa Vạn Phước , đường Lam Sơn - Huế.
Cuộc đời hành hóa của Ngài thể hiện phương châm : "Lợi sanh vi sự nghiệp , hoằng hóa thị gia vụ " của chư Tổ mà Ngài đã tâm đắc và thực hành suốt tám mươi lăm năm xuất trần vi thượng sĩ vậy ./.